"Dưới cỏ là mìn" gạn lọc những bài viết của Nguyễn Thế Hùng trong một khoảng thời gian dài, từ lúc anh còn công tác ở tập san Văn nghệ quân đội cho đến khi về đầu quân cho Báo Công an dân chúng. Sách chia làm hai phần, phần I là những sự kiện lưu dấu nhiều vùng đất đặc biệt như bút ký về Trường Sa, về các kho khí giới trong rừng của quân đội ta, về lực lượng bộ đội hóa học tham gia xử lý hậu quả chất độc da cam… Phần II là chân dung một số nhà văn áo lính như Khuất Quang Thụy, Hồng phong quang, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Tiến Thụy…
Cuốn Thư chiến trận được in song ngữ Việt - Anh.
Chị Ngô Thị Bích Hạnh (con gái nhà văn Ngô Thảo) cho biết: năm 2013, Jacqueline Lundquist tới Việt Nam để tìm hiểu về những nơi cha mình đã đặt chân tới. Ưng chuẩn một người bạn, Jacqueline gặp tôi. Đọc những trang sách của Jacqueline, tôi chợt nhớ đến những bức thư ba thường gửi cho mẹ cũng thời chiến tranh mà ngày bé chúng tôi vẫn thường đọc trộm... Chúng tôi quyết định làm cuốn sách chung. Và Thư chiến trận ra đời như vậy.
Cuốn sách Thư trận mạc ra đời tình cờ. Jacqueline Lundquist là một phóng viên người Mỹ. Chị là con gái của Donald C.Lundquist. Donald C.Lundquist đã mất, nhưng những bức thư mà ông gửi cho vợ con từ chiến trận miền Nam Việt Nam vẫn được giữ gìn cẩn thận. 300 bức thư của cha được cô tụ hội và xuất bản thành sách Những bức thơ dại Việt Nam.
Thư chiến trường là tập hợp những bức thư của thiếu tá Quân đội quần chúng Việt Nam Ngô Thảo và những bức thư của trung tá quân đội Mỹ Donald C.Lundquist đều gửi tới người đọc một ước nguyện chung: được trở về với vợ và con gái yêu quí của mình trong hòa bình. Không may cuộc thế của người sĩ quan Mỹ chấm dứt sớm vì những vết thương và sự chịu đựng trong chiến tranh, còn giấc mơ trở về trong chiến thắng của người thiếu tá Việt Nam đã thành hiện thực, nhưng ông cũng như những cựu chiến binh khác, đều mang trong tim lời hứa là phải sống cho cả phần đời của bao đồng đội đã nằm lại nơi trận mạc. Điều này không chỉ bộc lộ qua những bức thư ông viết từ trận mạc, mà còn qua cuốn Dĩ vãng phía trước đã được xuất bản.
Ngay kể cả khi gõ phím những dòng chữ này, người viết cũng phải lần khần khôn xiết, mãi mới dám bày tỏ… tí chút. Rất có thể, anh tài không có nên viết mãi mới thành. Nhưng có một sự thật là có nhiều chữ định viết ra mà sợ nó chui vào vòng “nhạy cảm”. Thế là không viết. Và đương nhiên là sẽ đổ lỗi rằng, nếu viết thì có thể không được in, nếu in thì có khi bị rầy rà. Không những bản thân “bị” mà thân nhân cũng “bị” luôn.
Và thế là, tác phẩm lớn vẫn còn ở phía trước, nó chưa được viết ra hoặc đã viết ra rồi chờ cái phút chốc mở cửa nào đó, hoặc chờ đến khi nằm trong thùng và trước đó, dặn cho con cháu. Nếu con cháu hiểu văn học, thấy văn học là cấp thiết cho đời sống hay cho ngày mai thì con cháu cho xuất hiện.
Họ, những người đó đã đánh mất dần bản thân vào những tản văn trên góc nhỏ tờ báo tuần, hay những truyện ngắn mì ăn liền, hay những truyện dài diễm tình để được xuất bản và có tiền mau chóng. Mất dần đến mức, sinh ra cả thói tự duyệt chính mình. Điều đó khiến cho ngòi bút và tư tưởng không thể thăng hoa, điều đó ai trong nghề cũng hiểu. Nhưng người trong nghề lại phụ thuộc rất nhiều người dưng nghề nhưng cầm nắm quyền “sinh hạ”.
Tác phẩm văn chương lớn chỉ xuất hiện khi các nguyên tố như: Khả năng sáng tạo của người viết, môi trường xuất bản, trình độ thưởng thức và giám định của cộng đồng người đọc… tụ hội đầy đủ.
Nhân tố thứ ba, cộng đồng và trình độ thưởng thức: Nếu nói trình độ thưởng thức nghệ thuật văn chương ở ta là thấp kém thì lý giải thế nào với các tác phẩm dịch cỡ Nobel được người đọc ở ta đón nhận trong thời kì vừa qua?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét